VÀI NÉT VỀ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Nguyễn
Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê
- Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng làm Tể tướng; anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ,
làm đại quan trong phủ Chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ
"Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc".
Quê
hương ông vẫn lưu truyền câu ca:
"Bao giờ
Ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước,
họ này hết quan"
Nguyễn
Du chỉ làm một chức quan nhỏ dưới thời Lê - Trịnh. Dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Du
lúc thì dạt về Quỳnh Hải, quê vợ ở Thái Bình; lúc thì lặn lội về xứ Hồng Lĩnh
quê nhà. Ông trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm đau không có thuốc,
mái tóc sớm bạc. Ông tự xưng là "Hồng Sơn liệp hộ" (người đi săn ở
núi Hồng) "Nam hải điếu đồ" (Người câu cá ở biển Nam Hải):
"Hồng Sơn
cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng
là lòng bấy nhiêu!".
Năm
1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, ông đã
bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung Quốc (1813-1814), giữ chức
Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử làm Chánh sứ sang
Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời.
Sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ
Nôm. Về chữ Hán có 3 tập thơ:
-
Nam trung tạp ngâm.
-
Bắc hành tạp lục.
-
Thanh Hiên thi tập.
Về
thơ chữ Nôm có:
-
Truyện Kiều.
-
Văn chiêu hồn.
Nguyễn
Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất nước ta:
"Nghìn năm
sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như
tiếng mẹ ru những ngày"
("Kính gửi Cụ Nguyễn
Du" - Tố Hữu)
Nguồn: Internet.